Viêm tiểu phế quản là bệnh chiếm 40% số ca bệnh phải vào điều
trị tại các khoa hô hấp nhi hằng năm. Tuy nhiên vẫn có thể phòng ngừa
bệnh hữu hiệu nếu biết cách.
- Viêm tiểu phế quản là căn bệnh hàng đầu ở trẻ nhỏ
Viêm
tiểu phế quản (VTPQ) là bệnh viêm nhiễm cấp tính của các phế quản kích
thước nhỏ, có đường kính dưới 2 mm hay còn gọi là các tiểu phế quản.
Thành của các TPQ này không có sụn, chỉ có cơ trơn nên dễ bị co thắt,
xẹp lại khi bị viêm. VTPQ là bệnh chỉ xảy ra ở trẻ dưới 24 tháng tuổi,
thường gặp nhất là 3-6 tháng tuổi. Khi mắc bệnh, các PQ nhỏ này bị viêm,
sưng phù, tiết nhiều dịch làm cho đường thở của trẻ bị chít hẹp, thậm
chí tắc nghẽn.
Triệu chứng ban đầu thường thấy nhất là tình
trạng trẻ ho, chảy nước mũi trong, sốt vừa hoặc cao. Sau từ 3- 5 ngày
thì trẻ ho ngày một nhiều, xuất hiện thở khó, thở rít. Những trường hợp
nặng thì tím tái, thậm chí ngừng thở. Những trẻ đến viện khi thăm khám
thường thấy nhịp thở của trẻ nhanh, sốt vừa, xuất hiện các cơn co kéo hô
hấp, lồng ngực bị rút lõm, trẻ thở rên. Tiếng thở có thể nghe ran rít,
ran ngáy, thông khí phổi kém.
Sau đó, trẻ ho nhiều hơn kèm khò
khè và có thể bị khó thở (thở nhanh hơn, thở co kéo lồng ngực). Nặng hơn
nữa trẻ có thể bỏ bú, tím tái. Bệnh có triệu chứng tương tự hen suyễn.
Thông thường, trẻ sẽ khò khè kéo dài khoảng 7 ngày, ho giảm dần trong
khoảng 14 ngày rồi khỏi hẳn nếu được chăm sóc tốt. Tuy nhiên, khoảng 1/5
trường hợp bệnh có thể kéo dài nhiều tuần lễ.
Biến chứng thường
gặp của bệnh là suy hô hấp, viêm phổi (do dễ bị bội nhiễm), xẹp phổi,
viêm tai giữa. Cần lưu ý là bệnh có thể sẽ nặng hơn, kéo dài hơn, nhiều
biến chứng hơn và tử vong cũng cao hơn trong các trường hợp sau: trẻ
dưới 3 tháng tuổi, trẻ sinh non - nhẹ cân, trẻ suy dinh dưỡng nặng, trẻ
có sẵn bệnh tim, phổi, suy giảm miễn dịch. Đây là những trẻ có yếu tố
nguy cơ cần được cho nhập viện sớm khi bị VTPQ. Ngoài ra, bệnh cũng có
khả năng tái phát.
Gần đây, người ta cũng đề cập đến mối liên
quan của VTPQ với bệnh hen. Sau khi bị VTPQ, đường thở của trẻ sẽ trở
nên nhạy cảm hơn và khoảng 1/3 trẻ bị VTPQ có thể diễn tiến thành hen
sau này.
- Vì sao trẻ bị viêm tiểu phế quản?
Tác
nhân làm cho trẻ bị VTPQ thường là do các virut, đứng hàng đầu là virut
hợp bào hô hấp (virus Respiratoire Syncytial viết tắt là VRS), chiếm
30- 50% các trường hợp mắc bệnh. Virut này có 2 điểm đặc biệt: Có khả
năng lây lan rất mạnh nên bệnh có khả năng xảy ra thành dịch; Người lớn,
trẻ lớn cũng có thể bị nhiễm VRS nhưng biểu hiện thường nhẹ, chỉ như
cảm ho thông thường. Nhưng nếu trẻ dưới 2 tuổi bị lây nhiễm có thể biểu
hiện dưới dạng nặng là VTPQ. Bệnh có thể có quanh năm nhưng thường vào
mùa mưa (các tỉnh phía Nam), hay mùa lạnh (các tỉnh phía Bắc). Virut cúm
và á cúm cũng gây bệnh cho khoảng 25% số trẻ bị VTPQ. Ngoài ra phải kể
đến Adenovirus với 10% số mắc.
Nếu trẻ sống trong vùng có dịch
cúm hay viêm đường hô hấp trên (do virut hợp bào) thì tỷ lệ bị lây nhiễm
rất cao do sức đề kháng ở cơ thể trẻ còn quá yếu, nhất là trẻ đang ở
tuổi bú mẹ mà không được bú đầy đủ sữa mẹ. Những trẻ từng bị ốm do nhiễm
virut trước đó như viêm mũi họng, viêm amydal, viêm VA... đều có nguy
cơ dễ nhiễm bệnh nếu không được chăm sóc tốt. Các trường hợp trẻ bị bệnh
tim bẩm sinh, sống trong môi trường hút thuốc lá thụ động, bị bệnh phổi
bẩm sinh hay bị suy giảm miễn dịch đều có nguy cơ cao mắc phải VTPQ.
Những trẻ có dấu hiệu sau cần được nhập viện sớm: có dấu hiệu nặng như
khó thở, bú kém, tím tái; có biến chứng: suy hô hấp, viêm phổi, xẹp
phổi...; có yếu tố nguy cơ (như đã nêu trên). Ngoài ra, các trường hợp
VTPQ nhẹ, không có biến chứng, không có yếu tố nguy cơ thì có thể được
chăm sóc tại nhà.
Chăm sóc tại nhà: Tiếp tục cho trẻ bú hay ăn
uống đầy đủ. Cần cho trẻ uống nhiều nước để tránh thiếu nước. Cần làm
thông thoáng mũi cho trẻ để giúp trẻ dễ thở hơn và bú tốt hơn. Có thể
nhỏ mũi 2-3 giọt nước muối sinh lý sau đó làm sạch mũi cho trẻ. Cho trẻ
dùng thuốc đúng như chỉ dẫn của thầy thuốc. Tránh khói thuốc lá vì có
thể làm bệnh của trẻ nặng hơn và dễ bị hen sau này. Cần đi tái khám đúng
hẹn của bác sĩ.
Chăm sóc tại bệnh viện: Đối với các thể thông
thường, không có suy hô hấp thì ngay khi vào viện, các bác sĩ sẽ tiến
hành hút thông đường thở, giải phóng các chất xuất tiết. Dùng khí dung
ẩm thuốc giãn phế quản có tác dụng nhanh như ventolin, bricanyl,
salbutamol. Kết hợp với lý liệu pháp hô hấp, vỗ rung, hút đờm. Những trẻ
sốt cao, nôn, thở nhanh phải bù đủ dịch và điện giải theo nhu cầu cơ
thể trẻ. Cần cho trẻ dinh dưỡng đủ chất và cân nhắc cẩn thận trước khi
sử dụng kháng sinh.
Đối với những trường hợp nặng có suy hô hấp
thì phải sử dụng liệu pháp oxygen, hút thông đường hô hấp trên, dùng
thuốc giãn phế quản đường khí dung ẩm, truyền nước, điện giải theo nhu
cầu cơ thể bù lượng thiếu hụt. Nếu những biện pháp trên không cải thiện
tình trạng suy hô hấp thì phải tiến hành đặt nội khí quản và các biện
pháp hô hấp hỗ trợ khác. Chỉ sử dụng kháng sinh khi có biểu hiện viêm
nhiễm thứ phát, không nên dùng steroid cho trẻ.
Muốn phòng bệnh
hiệu quả, các bà mẹ hãy cho trẻ bú sữa mẹ đến 2 tuổi, không để trẻ bị
lạnh, giữ cho môi trường sống của trẻ được trong lành, không cho trẻ
tiếp xúc với khói bếp than, khói thuốc lá, mầm bệnh. Những trẻ bị các
bệnh tim, phổi bẩm sinh càng đặc biệt lưu ý.